Lạm phát là một khái niệm quan trọng trong phân tích vĩ mô để đầu tư chứng khoán. Cùng DSC tìm hiểu lạm phát là gì? Nguyên nhân, hậu quả và các phương pháp để kiềm chế lạm phát trong bài viết dưới đây.
Khái niệm lạm phát (Inflation) là hiện tượng tăng giá chung của mọi hàng hóa và dịch vụ theo thời gian - đồng nghĩa với việc sức mua của tiền bị suy giảm do cần nhiều tiền hơn để chi trả cho cùng một hàng hóa hay dịch vụ, hay nói đơn giản hơn là “tiền mất giá”.
Cách tính lạm phát tuy sẽ có sự sai biệt giữa từng quốc gia nhưng nguyên lý chung là phản ánh sự thay đổi về mức giá chung của một rổ hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời thời gian.
Lạm phát xảy ra khi “ Mức giá chung tăng - sức mua suy giảm”, ngược lại với giảm phát (deflation) xảy ra khi mức giá chung giảm và sức mua gia tăng.
Chúng ta có thể phân loại lạm phát dựa trên mức độ và nguyên nhân của lạm phát.
Dựa vào mức độ lạm phát
Lạm phát bò (Creeping Inflation ): là lạm phát thấp (< 2%) nhưng có sự gia tăng rất nhỏ và liên tục. Bạn hãy hình dung một em bé đang dần bò nhanh hơn trước khi nó tập đi. Ở 2% và nhỏ hơn, mức lạm phát được coi là một phần tự nhiên của chu kỳ kinh tế.
Lạm phát đi bộ (walking inflation): là lạm phát khoản 4-5%. Đây là mức lạm phát mong muốn, xảy ra khi nền kinh tế tăng trưởng, giá trị hàng hóa và dịch vụ sản xuất gia tăng nhưng sức mua cũng được gia tăng để đáp ứng.
Lạm phát chạy (running inflation): là khi lạm phát đạt 10%. Ở mức độ này, sức mua bắt đầu có dấu hiệu không theo kịp sự tăng tiến mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ.
Lạm phát phi mã: Khi lạm phát đạt trên 10% . Chúng ta có thể đi theo lí luận đơn giản như sau. Khi lạm phát tăng, sức mua của đồng tiền giảm, đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng theo, gây áp lực tăng giá bán, giảm sản lượng, cắt giảm lương và nhân sự. Trong khi đó, người dân với mức lương bị cắt giảm, đồng tiền mất giá, dẫn đến sức mua càng suy giảm, không đủ cho sinh hoạt. Nền kinh tế gặp áp lực nghiêm trọng, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Siêu lạm phát: Khi lạm phát đạt trên 1000%/năm. Nền kinh tế quốc giá đó sẽ gặp khủng hoảng và gần như không thể khôi phục trở lại. Venezuela đã đạt mức lạm phát 1.000.000%. Không có để thấy tình trạng người dân mang xe tải tiền mặt ra chợ để mua thịt, mua rau.
Hiện tượng lạm phát xảy ra khi có tăng trưởng về cung tiền trong nền kinh tế. Nguồn cung tiền của mộ một quốc giá có có thể được gia tăng thông qua các chính sách tiền tệ và tài khóa của chính phủ.
Mua lại trái phiếu chính phủ từ các ngân hàng thông qua thị trường thứ cấp
In tiền và cung cấp tiền cho người dẫn thông qua các khoản trợ cấp, hỗ trợ kinh tế,...
Giảm lãi suất cho vay
Nền kinh tế luôn vận động không ngừng với nhiều nhân tố nảy sinh theo thời gian, khiến giới kinh tế phải liên tục cập nhật và điều chỉnh. Tương tự, tại các tình huống trên, tiền đều sẽ tiến đến kết cục “mất giá” nhưng cơ chế cụ thể dẫn đến lạm phát có thể được phân loại.
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi có hiện tượng tăng cung tiền và tín dụng, kích thích tăng trưởng về nhu cầu chung cho hàng hóa và dịch vụ nhanh hơn mức tăng trưởng sản lượng sản xuất của nền kinh tế.
Khi người tiêu dùng có tiền và lạc quan trong việc chi tiêu nhiều hơn dẫn đến nhu cầu hàng hóa và dịch vụ tăng vọt nhưng nguồn cung chưa kịp thích ứng, dẫn đến giá cả tăng. Có thể hình dung như một buổi đấu giá nơi có nhiều người muốn và đủ sức mua trong trong khi ít sản phẩm để bán.
Lạm phát chi phí đẩy là lạm phát hệ quả của việc tăng giá chi phí sản xuất.
Khi nguồn thặng dư cung tiền và tín dụng chảy vào thị trường hàng hóa và một số thị trường tài sản khác, chi phí cho các nguyên liệu thô và hàng hóa trung gian sẽ tăng. Chúng ta có thể thấy rõ hiện tượng này khi có một biến động tiêu cực đến nguồn cung hoặc đột biến nguồn cầu của một số hàng hóa trung gian hoặc nguyên liệu ví dụ như dầu - Đầu vào sản xuất và nguyên liệu cho quá trình vận chuyển hàng hóa & dịch vụ.
Chi phí sản xuất tăng cao sẽ gây áp lực lên nhà sản xuất tăng giá bán thành phẩm, chuyển một phần chi phí tăng thêm sáng cho người tiêu dùng.
Ví dụ ; Nguồn cung tiền tăng - mức giá chấp nhận được cho giá dầu cũng tăng - Được đẩy dần vào giá thành phẩm qua quá trình sản xuất - Tăng dần mức giá chung hàng hóa và dịch vụ.
Khi giá hàng hóa và dịch vụ tăng, nhân công sẽ có xu hướng yêu cầu tăng lương để duy trì mức sống. Khi tăng lương, lượng cung tiền càng tăng, vào nên voày lặp tăng giá - tăng chi tiêu. Giá dầu quốc tế tăng 5 lần (1972-1974) đẩy lạm phát trung bình thế giới tăng gần gấp 3 lần từ 3,6% lên 13,5%.
Xảy ra khi đa số người tiêu dùng kỳ vọng lạm phát sẽ duy trì tăng trưởng trong bối cảnh giá hàng hóa và lạm phát đang gia tăng. Khi đó, nhân công sẽ có xu hướng yêu cầu tăng lương để duy trì mức sống hiện tại. Khi một vài doanh nghiệp với hiệu quả kinh doanh tốt ( nhờ lạm phát ở mức vừa phải giai đoạn trước đó) chấp thuận yêu cầu tăng lương cũng sẽ gây áp lực tăng lương ở các doanh nghiệp khác để giữ chân nhân công. Doanh nghiệp sẽ dễ dàng chấp thuận tăng lương hơn nếu biết họ có thể đẩy chi phí đó vào giá thành phẩm. Lương tăng đồng nghĩa với chi phí sản xuất tăng và giá thành phẩm hàng hóa dịch vụ vụ tăng , tạo nên vòng xoáy lương-giá ( một yếu tố thúc đẩy yếu tố còn lại)
Tùy thuộc vào nguyên nhân dẫn đến hiện tượng lạm phát và tốc độ thay đổi, lạm phát có thể tốt hoặc xấu.
Khi lạm phát tối ưu và cân bằng, xấp xỉ và nhỏ hơn 3-5% góp phần kích thích tiêu dùng, tín dụng, hoạt động kinh tế và đầu tư phát triển, tăng nhu cầu sử dụng lao động.
Cá nhân/Tổ chức sở hữu tài sản hữu hình như bất động sản hay nguyên vật liệu sẽ được hưởng lợi khi lạm phát tăng giá tài sản của họ, đồng nghĩa với việc họ có thể bán với giá cao hơn.
Lạm phát được đo lường bằng chỉ số giá (Price Index) được tính toán và kiểm soát dựa trên rỏ hàng hóa quốc gia. 2 Chỉ số giá phổ biến nhất là chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index) và chỉ số giá bán buôn WPI (Wholesale Price Index).
Chỉ số giá tiêu dùng cấu thành từ trung bình giá của nhiều loại hàng hóa và dịch vụ được sử dụng chủ yếu tại một quốc giá, với cơ cấu tỷ trọng các loại hàng hóa dịch vụ trong rổ cụ thể cho từng quốc giá. Có thể kể đến như lương thực, chi phí nhà, chi phi y tế và di chuyển.
Sự thay đổi về giá cả của từng hàng hóa dịch vụ được tính trung bình dựa trên cơ cấu tỷ trọng tương ứng của chúng trong rổ. Giá được sử dụng ở đây là giá bán lẻ - khả dụng để sở hữu bởi công dân.
Sự thay đổi của chỉ số CPI thường được dùng để đánh giá tác động của sự thay đổi giá cả tương quan với chi phí sống. Vậy nên chỉ số CPI là chỉ số được sử dụng nhiều nhất để đánh giá về lạm phát.
Nguyên tắc tính trung bình giá theo tỷ trọng đóng góp tương ứng được giữ nguyên như ở chỉ số CPI. Tuy vậy, chỉ số WPI được cấu thành từ các hàng hóa ở giai đoạn đoạn sản xuất , bán buôn chứ không phải thành phẩm bán lẻ. Ví dụ: giá cotton cho một số sản phẩm trung gian từ cotton. Giá của các mặt hàng cũng được lấy theo giá bán buôn.
Chỉ số này đo lường sự thay đổi về giá cả ở giai đoạn trước bán lẻ. Nước Mỹ sử dụng một chỉ số tương đồng là chỉ số giá sản xuất PPI ( Producer Price Index). Chỉ số này phản ứng sự thay đổi giá cả của các hàng hóa trung gian và dịch vụ từ góc nhìn của các nhà sản xuất nội địa thay vì từ góc nhìn của người tiêu dùng như CPU.
Nhìn chung, các chỉ số trên đều phản ứng mức độ thay đổi mức giá chung bình quân của rổ hàng hóa quốc giá trong thời kỳ đo lường.
Xem thêm: Lạm phát nên đầu tư gì?
Tỷ lệ lạm phát = CPI hiện tại/CPI quá khứ * 100%.
Nguồn gốc của lạm phát là lượng cung tiền tăng trưởng nhanh hơn sản lượng sản xuất được hoặc sản lượng sản xuất trở nên thiếu hụt nghiêm trọng so với lượng cung tiền sẵn sàng chi trả. Biện pháp hạn chế lạm phát chủ yếu tập trung vào 2 yếu tố “giảm cung tiền” hoặc “tăng sản lượng”.
Nhà nước có thể hạn chế lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế thông qua:
Nhà nước có thể tăng sản lượng hàng hóa dịch vụ thông qua:
Xem thêm: Mối quan hệ giữa lãi suất và thị trường chứng khoán
Link nội dung: https://tree.edu.vn/lam-phat-la-gi-hien-tuong-lam-phat-xay-ra-khi-nao-a13764.html